Blog Tre Làng Phản Biện những vấn đề chính trị xã hội, chửi cái lũ phản động

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014

CƠ HỘI NÀO CHO GIẢNG VIÊN LÀM KHOA HỌC?

Cơ hội nào cho giảng viên làm khoa học?

Nhân chủ đề liên quan đến nghiên cứu khoa học (NCKH) ở Việt Nam. Hai tác giả Nguyễn Công ThảoPhong Trần đã cho thấy “mặt sau” của công tác NCKH và người làm khoa học. Để bạn đọc có thêm góc nhìn trong bức tranh toàn cảnh, người viết bổ sung thêm hoạt động NCKH trong các trường ĐH của Việt Nam.

Đổi giờ giảng dạy sang giờ NCKH

Ở Việt Nam, có 3 lĩnh vực cung cấp nhân lực NCKH chủ yếu, bao gồm: (1) Các viện chuyên ngành thuộc 2 Viện hàn lâm khoa học quốc gia và các bộ ngành; (2) Các trường ĐH - cao đẳng; (3) Các trung tâm, viện trực thuộc các tỉnh, thành phố.

Xét về số lượng nhân lực tham gia NCKH, các trường ĐH phải chiếm tới 2/3 số người tham gia NCKH. Bởi lẽ, giảng viên ĐH ngoài công tác giảng dạy phải thực hiện thêm công tác NCKH để phục vụ công tác giảng dạy.

Theo quy định tại Quyết định 64/2008/QĐ-BGDĐT về việc Quy định chế độ làm việc đối với giảng viên. Mỗi giảng viên tối thiểu phải có 500 giờ NCKH (PGS 600 giờ, GS 700 giờ), quy đổi tương đương khoảng 150 giờ chuẩn giảng dạy.

Khối lượng giờ NCKH được xác định qua các hoạt động khoa học như viết giáo trình, viết sách tham khảo, viết báo, chủ trì và tham gia đề tài các cấp, tham gia các hội thảo khoa học, hướng dẫn sinh viên trong các hoạt động khoa học,…

Cứ tưởng rằng đây là hoạt động chuyên môn thuần túy, và không khó khăn gì để đạt được. Vì chỉ cần có một bài báo đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc hội thảo khoa học trong nước là đã có khoảng 300 ÷ 700 giờ NCKH (tương đương với khoảng 100 ÷ 200 giờ chuẩn giảng dạy). Thế nhưng điều này ngược lại hoàn toàn. 

Số lượng giảng viên có thời lượng NCKH từ các hoạt động nói trên rất ít. Điều này thể hiện ở số giáo trình, sách tham khảo xuất bản hàng năm, số đề tài khoa học công nghệ đăng ký và số lượng bài báo trên các tạp chí chuyên môn và hội thảo khoa học. Kể cả các hoạt động được tính là khối lượng NCKH như hướng dẫn sinh viên NCKH và thi Olympic cũng rất ít.

Vậy giảng viên sẽ lấy đâu ra khối lượng NCKH theo quy định? Xin thưa rằng, các giảng viên sẽ lấy giờ dạy trên lớp quy đổi sang giờ NCKH. Nghĩa là, nếu không tham gia bất kỳ một hoạt động nghiên cứu khoa học nào, một giảng viên sẽ bị trừ đi 150 giờ chuẩn giảng dạy để bù vào 500 giờ NCKH.

Những ai làm khoa học? 

Các trường ĐH là nơi làm việc của những người có học hàm, học vị nhiều nhất trong cả nước. Và NCKH là một phần tất yếu trong hoạt động chuyên môn của họ. Nhưng như đã nêu ở trên, số lượng giảng viên thực sự tham gian nghiên cứu khoa học rất ít. Vậy có những ai làm khoa học theo đúng nghĩa?

Thứ nhất là những người nhận/đấu thầu được các đề tài khoa học từ cấp tỉnh thành phố trở lên. Với kinh phí dành cho NCKH như hiện nay thì có thể thấy số lượng các đề tài NCKH rất ít. Theo đánh giá chủ quan của người viết, không quá 10% số lượng giảng viên của các trường ĐH tham gia thực hiện các đề tài khoa học hàng năm.

Thứ hai là là những người đang làm NCS bắt buộc phải có các công trình khoa học công bố. Tuy nhiên, nếu làm NCS trong nước thì những công trình công bố thường nằm ở trong nhóm thứ nhất nêu trên. Vì các NCS thường phải tham gia các đề tài cùng thầy hướng dẫn để có kinh phí thực hiện nghiên cứu.

Thứ ba là những người có đề tài, dự án hợp tác quốc tế tại Việt Nam từ một số các trường đại học, viện nghiên cứu nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Đây là nguồn cung cấp nhiều nhất các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí quốc tế. Tuy nhiên, số lượng người tham gia trong hoạt động này rất rất ít.

Thứ tư là những người tham gia chuyển giao khoa học công nghệ vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Chất lượng NCKH với những đề tài bảo vệ xong cất vào tủ mà chúng ta đã nói rất nhiều trong thời gian qua cho thấy số lượng những người có khả năng chuyển giao công nghệ từ nghiên cứu của mình cũng rất ít.

Thứ năm là những người tham gia vào các hoạt động KHCN thường xuyên như tham gia phản biện tại các hội đồng khoa học, các hội đồng thẩm định chuyên môn và các hội đồng bảo vệ tiến sỹ, cao học. Cũng có thể thấy số lượng người tham gia các hoạt động này rất ít, chủ yếu là các cây đa cây đề trong ngành lẫn các chuyên gia hàng đầu.

Như vậy, chúng ta có thể hình dung được bức tranh toàn cảnh về hoạt động NCKH của các trường ĐH. Đối với các trường ĐH lớn, có uy tín về giảng dạy và có số lượng các GS, PGS, TS đông đảo thì công tác NCKH còn có những dấu ấn. Còn đối với các trường ĐH trẻ, đặc biệt là các trường ĐH nâng cấp từ các trường cao đẳng và các trường ĐH ngoài công lập, công tác NCKH rất hạn chế.

Nếu tính tổng thể đối với các hoạt động NCKH của 5 nhóm kể trên, thì chỉ có khoảng 30 ÷ 40 % số giảng viên của các trường ĐH thực sự tham gia NCKH. 

Khó khăn trong NCKH ở các trường ĐH - vì sao? 

Để trả lời câu hỏi trên trong khuôn khổ một bài viết ngắn, người viết sẽ nêu ra những nhóm nguyên nhân chính và không đi sâu vào phân tích đầy đủ kèm theo những minh chứng cụ thể.

- Không có cơ hội tiếp cận đề tài khoa học: Mặc dù trong vài năm trở lại đây, các bộ ngành, tỉnh thành đã cải cách công tác tuyển chọn đề tài khoa học. Cơ hội tiếp cận thông tin và được tham gia đấu thầu công khai các đề tài khoa học ngày một nhiều hơn. Tuy nhiên, nhiều nhưng không phải là dễ dàng để có thể dành được đề tài.

Bởi vì, việc chia nhau “thị phần” trong chiếc bánh kinh phí NCKH vẫn xảy ra, một phần là do những người có “quan hệ” tranh đề tài về cho cá nhân và tổ chức của họ, một phần do các bộ ngành phải phân bổ kinh phí để “nuôi” các cơ sở nghiên cứu yếu kém. Điều này đã dẫn đến hiện tượng xin cho và “chạy” đề tài nghiên cứu. Vì thế việc đấu thầu công khai nhiều nơi mang tính hình thức và khó có cơ hội cho các giảng viên ĐH.
Đọc thêm »

CƠ HỘI NÀO CHO GIẢNG VIÊN LÀM KHOA HỌC? Rating: 4.5 Diposkan Oleh: Unknown

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

comment xây dựng Tre Làng Blog nhớ viết có dấu, có lịch sự