Blog Tre Làng Phản Biện những vấn đề chính trị xã hội, chửi cái lũ phản động

Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

GIẬN TÀU CHÉM CHỮ NHO!

'Tự ái rởm' hay là chuyện 'Giận Tàu, chém chữ Nho'

Hoàng Tuấn Công/blog Tuấn công thư phòng

Bài viết Thưa ông Bộ trưởng Văn hóa, đâu là phần chìm của văn hóa ngoại lai? của tác giả Xuân Dương đăng trên báo “Giáo dục Việt Nam”, chúng ta có thể xem như một trong những trường hợp tiêu biểu cho hiện tượng “Giận Tàu, chém chữ Nho”, bài ngoại cực đoan, gây nhiễu loạn thông tin và ngộ nhận về văn hóa truyền thống dân tộc hiện nay. Sau khi đồng tình chủ trương "truy bắt" sư tử Tàu, bình hoa Tàu tùy tiện đưa vào các di tích và lên án việc sử dụng chữ Hán trên hoành phi, câu đối ở các ngôi đền chùa, đặc biệt là loại mới trùng tu, xây dựng, tác giả XD đặt ra câu hỏi:

“Mốt lai căng đang tràn ngập mọi hang cùng, ngõ hẻm, đang len lỏi vào các cơ quan công quyền, vào tận chốn thờ tự linh thiêng vì sao vẫn chưa làm thức tỉnh những người có trách nhiệm ở ngành Văn hóa. Vì sao ngành này và các địa phương mới chỉ để ý đến mấy con sử tử đá mà không chú ý đến những điều sâu sắc hơn, nhạy cảm hơn như hoành phi, câu đối, bia đá… trong di tích?”

Như vậy, chỉ xem cách đặt tên bài viết “Thưa ông Bộ trưởng, đâu là phần chìm của văn hóa ngoại lai ?” và trích đoạn trên cũng đủ hiểu, tác giả Xuân Dương xem chữ Hán là phần chìm của tảng băng “văn hóa ngoại lai” và “mốt lai căng” mà Việt Nam cần bài trừ triệt để (!)

Chúng tôi xin được trao đổi đôi điều, những điều mà lẽ ra không cần phải nhắc lại nữa.

1.Chữ Hán có phải là “lai căng”, là “văn hóa ngoại lai” cần phải bài trừ không?

Chưa có bằng chứng nào cho thấy người Việt cổ từng có chữ viết (hiểu theo đúng nghĩa) Không văn tự này thì văn tự khác, chúng ta đều phải sử dụng chữ viết của dân tộc khác. Bởi thế không có cơ sở để nói rằng chữ Hán xâm lăng, triệt tiêu chữ của người Việt. 

Điều đặc biệt là trong không ít cuộc chiến tranh giữ nước, người Việt đã biến chữ Hán-chữ vốn do kẻ đô hộ, xâm lược ấy truyền sang với mục đích đồng hóa, thành một thứ vũ khí lợi hại để đánh và chiến thắng chính kẻ thù truyền kiếp phương Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống Tống, Lý Thường Kiệt đã thực hiện kế “Tiên phát chế nhân” soạn bài hịch“Phạt Tống lộ bố văn” bằng chữ Hán, kể tội nhà Tống, thu phục được nhân tâm vùng quân sĩ sẽ đi qua, rồi đem quân đánh sang tận đất Tống, phá thành Ung Châu, triệt hạ kho lương chuẩn bị để xâm lược Đại Việt. Khi giặc Tống xâm lăng, bài thơ thần "Nam Quốc sơn hà" lại vang lên làm giặc phương Bắc rụng rời... Những giai thoại đối đáp chữ nghĩa giữa sứ ta và sứ Tàu khẳng định chữ Hán đã được ông cha ta tiếp thu nhuần nhuyễn, uyên thâm không thua kém gì bên "Thiên triều". Trong khởi nghĩa Lam Sơn, khi vây hãm thành Đông Quan lâm vào thế bế tắc, Lê Lợi đã mưu "phạt tâm công" dùng những bức thư chữ Hán lời lẽ vừa cương quyết vừa mềm mỏng, khôn khéo để dụ Vương Thông đầu hàng, tránh đầu rơi máu chảy và bảo vệ vẹn nguyên kinh thành. Khi thiên hạ đại định,"Bình Ngô đại cáo" bằng chữ Hán lại vang lên sang sảng tự hào: "Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác..." "Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có..." (Bản dịch)

Cho tới tận bây giờ, những thư tịch cổ bằng chữ Hán của các triều đại phong kiến Việt Nam vẫn tiếp tục đứng về phía dân tộc Việt Nam khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, tố cáo với thế giới sự ngang ngược của Trung Quốc. Và nhiều, rất nhiều ví dụ khác không thể kể hết.

Chữ Hán có nguồn gốc ngoại lai, nhưng yếu tố ngoại lai đã được ông cha tiếp thu có sáng tạo, và đã trải qua hàng ngàn năm bồi đắp, chắt lọc, trở thành bản sắc truyền thống dân tộc Việt Nam. Nó khác hẳn kiểu bắt chước, sao chép, vay mượn một cách sống sượng, kệch cỡm của văn hóa lai căng.

Vậy lý do gì ông Xuân Dương xếp chữ Hán vào diện "lai căng", "ngoại lai" cần bài trừ ? 

2.Vì sao hoành phi câu đối lại viết bằng chữ Hán ?

Trong bài viết, ông Xuân Dương luôn thắc mắc, tại sao hoành phi, câu đối trong các đình chùa, miếu mạo, đặc biệt loại mới xây dựng lại không viết bằng chữ Quốc ngữ: “Không nói đến các di tích được trùng tu, rất nhiều công trình tưởng niệm các danh nhân, đình, chùa mới xây dựngnhững năm gần đây (ví dụ chùa ở đảo Bạch Long Vĩ, khu lưu niệm danh nhân Cao Bá Quát – Phú Thụy, Gia Lâm, Hà Nội) hoành phi câu đối đều bằng tiếng Hán. Bao nhiêu trong số chín mươi triệu người Việt ngày nay có thể đọc và hiểu những chữ đó? Chẳng lẽ phải viết bằng chữ Hán thì công trình mới có giá trị lịch sử?”(HTC nhấn mạnh)

Xin thưa: hoành phi, câu đối viết bằng chữ Hán vì nó vốn sinh ra để viết bằng chữ Hán, sinh ra bởi đặc điểm, cách "chơi" của chữ Hán; và hàng ngàn năm qua cha ông ta vẫn viết bằng chữ Hán chứ không phải bất cứ một loại văn tự nào khác. Cao Bá Quát được người đời suy tôn là ông “Thánh” chữ Nho (“Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán...”; “Thần Siêu, thánh Quát”). Bởi vậy, việc sử dụng hoành phi, câu đối chữ Nho để tưởng niệm(không phải “lưu niệm” như ông Xuân Dương viết) ông “Thánh chữ” là việc làm hoàn toàn hợp lý. Chỉ có người muốn đưa chữ Quốc ngữ-thứ chữ Tây đã “bóp chết” chữ Nho (Hán cổ) để “tưởng niệm” Cao Bá Quát mới là điều đáng nói.

Với chuyện hoành phi câu đối trong chùa ở đảo Bạch Long Vĩ dùng chữ Hán cũng hết sức bình thường và hợp lý. Bởi đó là nét đẹp truyền thống trong văn hóa và kiến trúc cổ truyền dân tộc, hình ảnh đã in sâu vào tiềm thức của mỗi người. Ngoài đảo xa muôn trùng sóng gió mà lại hiện diện một ngôi chùa Việt có nét đẹp cổ kính, gần gũi như vốn đã tồn tại ở đó hàng trăm năm thì còn gì bằng? Nếu sử dụng chữ Quốc ngữ, thì hàng trăm năm sau, ngôi chùa vẫn chỉ mới như ngày hôm qua. Đình chùa, miếu mạo có nét cổ kính, một chút thâm trầm, bí ẩn cũng tạo được hiệu ứng tâm linh so với những nét quá mới và phô bày lồ lộ trước mắt.

Trở lại vấn đề đang bàn. Do nghĩa lý sâu xa, ý tại ngôn ngoại của chữ Hán, bức hoành phi chỉ cần 3 đến 4 chữ, đôi câu đối mỗi vế 5 hay 7 chữ đã nói lên được rất nhiều điều mà chữ Nôm, chữ Quốc ngữ khó nói được, hoặc phải diễn giải ra tới cả trang giấy. Mỗi chữ Hán dù ít nét hay nhiều nét đều được viết trong một ô vuông. Thư pháp chữ Hán đã có hàng ngàn năm tuổi, kết hợp nghệ thuật điêu khắc, sơn son thếp vàng, mỗi bức hoành phi, câu đối chữ Hán với đầy đủ chương pháp, lạc khoản, trở thành bức thư họa khắc gỗ lộng lẫy. Bởi vậy, hoành phi, câu đối chữ Hán không chỉ biểu đạt nội dung, mà hình thức của nó còn tham gia vào không gian kiến trúc nội thất đình chùa, miếu mạo, tạo thành một chỉnh thể nghệ thuật chạm khắc gỗ hài hòa với những long ly, quy phượng, hoa văn, hương án, tượng thờ...

Nói về chữ Quốc ngữ, xưa ông bà ta gọi là “chữ Tây” vốn sinh ra để viết theo hàng ngang, nay đưa vào câu đối viết theo hàng dọc là bắt chước cách viết chữ Hán. Mặt khác một chữ Quốc ngữ có khi ít ký tự, nhiều ký tự, thòi ra, thụt vào trên hoành phi, câu đối rất thô, cứng và vô hồn. Trong khi đó thư pháp chữ Quốc ngữ lại chưa đủ “pháp” để vừa đảm bảo giá trị văn bản, vừa có yếu tố mỹ thuật. Càng kệch cỡm hơn khi chữ Quốc ngữ cũng được sơn son, thếp vàng, xung quanh chạm khắc vân mây, rồng hóa, đặt phía trên cửa võng làm theo lối cổ. Nó phá vỡ tính thống nhất trong phong cách kiến trúc, bài trí nội thất của đền chùa, di tích. Có lẽ chính bởi vậy mà đã có một thời khi sử dụng chữ Quốc ngữ viết câu đối, người ta phải "gò" các con chữ cái La tinh vào khuôn khổ ô vuông hoặc hình tròn rồi tìm cách viết cho nó na ná giống như chữ Hán để dễ coi hơn. Vậy là "Mèo lại hoàn mèo". Thậm chí mèo chẳng ra mèo, chuột chẳng ra chuột. Dân gian có câu: “Trò nào trống nấy”. Nếu chỉ xét riêng về yếu tố mỹ thuật và nguyên tắc phục cổ trong kiến trúc đền chùa thì cách làm "tân cổ giao duyên" mà ông Xuân Dương ca ngợi mới đáng gọi là lai căng khó chấp nhận.

Ông Xuân Dương cho rằng hoành phi, câu đối phải viết bằng chữ Quốc ngữ bởi "Bao nhiêu trong số chín mươi triệu người Việt ngày nay có thể đọc và hiểu những chữ đó?" (tức chữ Hán-HTC). Tuy nhiên, lại phải hiểu rằng, chữ trên hoành phi câu đối trong đền chùa không thuộc loại bắt buộc phải phổ cập. Nội dung của nó trước tiên là để thờ thần, phật, tiên, thánh, tiền nhân... Nếu cần, chỉ một phiến đá kích thước chừng 50x70 đã có thể làm sơ đồ, phiên âm, dịch, giải nghĩa rõ ràng nội dung các bức hoành phi câu đối Hán Nôm trong một ngôi chùa hay đền miếu.

Với chữ Hán, nhìn vào mặt chữ có thể biết được nghĩa. Tuy nhiên, nhiều chữ đồng âm, dị nghĩa phiên âm Hán Việt, viết bằng chữ Quốc ngữ rất khó phân biệt. Ca ngợi vua tôi bằng chữ Hán mà viết bằng chữ Quốc ngữ: “Quân tắc cổ, thần tắc cổ...; Thượng ung tai, hạ ung tai...” thì khác gì những lời chửi rủa ? Bức đại tự "Đại hùng bảo điện" viết bằng Quốc ngữ ông Xuân Dương ca ngợi mọi người đều đọc được, thực chất chỉ là phiên âm Hán Việt. Bởi vậy đọc được rồi, liệu có bao nhiêu người hiểu"Đại hùng bảo điện" nó là cái chi? Để hiểu được, liệu có thể diễn giải nội dung chừng nửa trang giấy rồi khắc chữ lên đó làm “hoành phi” không? “Bảo điện” thờ Phật thì trước hết phải viết bằng chữ Hán-thứ chữ và nghĩa nhà Phật dùng để suy tôn đức hiệu của Phật (Đại Hùng) chứ? Rồi"Thần công mạc trắc", hay "Vân lai tập hội" nghĩa là gì? Ngay như 4 chữ"Cao sơn cảnh hành" trên đền Hùng nếu phiên âm Hán Việt và viết bằng chữ Quốc ngữ, già trẻ, lớn bé đều có thể đọc được. Nhưng trong khi các nhà Hán học còn ngồi “bàn nát” xem đọc là “cảnh hành” hay “cảnh hạnh”và nó có nghĩa là gì thì liệu mấy người đọc Quốc ngữ hiểu được? Hay cuối cùng vẫn là những người biết đọc chữ Hán mới hiểu ? Hơn nữa, không đọc được chữ Hán là do không được dạy, không được học, không thèm học chứ đâu phải tại thứ chữ đã gắn bó với dân tộc Việt Nam hàng ngàn năm ? 

Làm đình, làm chùa tức là kế thừa và phát huy văn hóa truyền thống. Việc vứt bỏ chữ Hán đã có hàng ngàn năm lịch sử để thay vào một thứ chữ tuy được gọi là Quốc ngữ nhưng cũng là ngoại lai, với mẫu tự La tinh và cách ghép vần đa số theo tiếng Tây gốc Gaulois; cũng theo chân một kẻ xâm lược đô hộ khác, nhưng mới chỉ thành chữ Quốc ngữ trước 1945. Chữ này vốn không ai dùng để viết hoành phi, câu đối. Vậy cái nào lai căng, kệch cỡm hơn cái nào? Nếu ông Xuân Dương hoặc ai đó thấy cái hay, cái đẹp của chữ Quốc ngữ trên hoành phi câu đối trong đền chùa xin cứ dùng, không ai cấm. Không nên chỉ trích, thúc giục Bộ văn hóa, chính quyền TP Hải Phòng dùng cái mới để triệt tiêu cái cũ, coi sự hiện diện của chữ Hán trên “hoành phi, câu đối, bia đá… trong di tích”là “lai căng”, là “trái với đạo lý dân tộc” (!)

3.Hoành phi, câu đối viết bằng chữ Quốc ngữ có thoát được chữ Hán “lai căng” không ?

Phương án thay thế “văn hóa ngoại lai” và “mốt lai căng” chữ Hán của ông Xuân Dương là dùng chữ Quốc ngữ. Thế nhưng, tên nước“Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” rồi mấy chữ “Độc lập- Tự do-Hạnh phúc” hay bản thân tên tác giả Xuân Dương, “Đại hùng bảo điện” hay“Vạn đức từ tôn” viết bằng chữ Quốc ngữ mà Xuân Dương ca ngợi có tính dân tộc kia đều là từ Hán Việt. Từ Hán Việt ấy ở đâu ra ? Là do ta dùng chữ Hán, đọc theo cách phát âm của ta. Từ Hán Việt mang nghĩa chữ Hán, nó chỉ khoác cái áo phát âm Việt mà thôi. Nói một cách nôm na, cái “thằng” chữ Hán “lai căng” mà ông Xuân Dương cho rằng "trái với đạo lý dân tộc" và cần bài trừ kia chính là bố đẻ ra “thằng con” từ Hán Việt. Vậy, nếu đã kính “ông con”, sử dụng “ông con”, ta có khinh thường, hay “triệt hạ” được “ông bố” không ? Được! Bằng cách nào? Chỉ cho phép “thằng con” Hán Việt ở lại định cư, còn đuổi “ông bố” chữ Hán về nước. Hay! Vậy bức hoành phi có mấy chữ “Đại hùng bảo điện”, hay “Vạn đức từ tôn”, tên ông Xuân Dương rồi mấy địa danh Hoàng Sa, Trường Sa, Song Tử Tây, Bạch Long Vĩ...kia nghĩa là gì nhỉ? Không biết ! Vậy muốn biết phải hỏi ai bây giờ? Hỏi "mẹ” từ Việt. Nhưng "mẹ Việt" chỉ ghi âm từ Hán chứ không ghi nghĩa. Làm sao bây giờ? Chỉ còn mỗi một cách là hỏi "bố đẻ" ra nó, hỏi chính cái "thằng" chữ Hán “lai căng” kia ! Nghĩa là ta phải tra “Hán Việt từ điển”. Nếu tra Từ điển, tự điển của Đào Duy Anh, của Thiều Chửu (vốn cũng phải tham khảo từ điển Tàu)...mà vẫn chưa thông, ta còn phải tìm sang tận bên Tàu trực tiếp hỏi “lão” “Khang Hy từ điển”, hỏi “Từ nguyên" hay "Hán ngữ đại từ điển"...của “Tàu khựa” nữa kia. Nếu ai đó nói rằng, mấy chữ "Đại hùng bảo điện" hay "Hoàng sa, Trường sa"...ấy có gì mà không hiểu nghĩa. Vâng, nhưng nhờ đâu mà hiểu? Cũng là do những người được học chữ Hán dạy cho ta, hoặc tra cứu từ điển chữ Hán mới hiểu được mà thôi. Còn nếu nói “cùng” rằng, tôi không thèm biết nghĩa Hán của nó là cái gì, chỉ biết nó là địa danh, nhân danh mà thôi. Cũng được. Đó là quyền của mỗi người. Tuy nhiên, không nên hô hào, tuyên truyền cho người khác hoặc con cháu cũng phải có cái đức giống mình. 

Cha ông ta từng sáng tạo ra chữ Nôm. Thế nhưng chữ Nôm lại cũng được hình thành trên cơ sở các bộ chữ Hán và phép cấu tạo chữ Hán. Mặt khác, rất nhiều chữ mang tiếng là chữ Nôm nhưng thực chất là Hán 100%. Ví dụ: thần, phật, đạo đức, học, hành, bút, mực (mặc) phúc, đức, nhân, tâm,v.v...Vua Quang Trung là người chủ trương triệt để sử dụng chữ Nôm, kể cả trong các văn bản hành chính Nhà nước.Thế nhưng, cái tên Nguyễn Huệ và niên hiệu Quang Trung, rồi thành Phượng Hoàng Trung đô xây dựng ở Nghệ An vẫn phải viết bằng chữ Hán 100% đó thôi.

Cuối cùng, như trên đã nói, hoành phi, câu đối vốn không phải của người Việt mà là cách “chơi” xuất phát từ Tàu. Vậy, ai đó có dám bỏ, và có thể bỏ hết, không dùng hoành phi câu đối nữa không? Có cho rằng những “Ẩm thủy tư nguyên”, “Mộc bản thủy nguyên” “Đức lưu quang”phía trên bàn thờ tổ tiên nhà mình là “lai căng”, là “trái với đạo lý dân tộc”không? Có dám đổi cái tên ý nghĩa, đẹp đẽ của mình hoặc đặt tên cho con cháu mình là cột, kèo, thúng, mủng, dần, sàng được không ? Hay là nói như các cụ, “Kiêng cái nhưng ăn nước?” 

4.Yếu tố ngoại lai có làm mất bản sắc và suy yếu dân tộc hay không?
Đọc thêm »

GIẬN TÀU CHÉM CHỮ NHO! Rating: 4.5 Diposkan Oleh: Unknown

1 nhận xét:

comment xây dựng Tre Làng Blog nhớ viết có dấu, có lịch sự