Blog Tre Làng Phản Biện những vấn đề chính trị xã hội, chửi cái lũ phản động

Thứ Hai, 8 tháng 12, 2014

ĐƠN CỦA LUẬT SƯ TRONG VỤ HỒ DUY HẢI

Khoai@: Đăng lại đơn của luật sư Trần Hồng Phong (anh Eco Law) trong vụ Hồ Duy Hải. Đơn rất dài vì phân tích chi tiết các điểm mâu thuẫn trong vụ án. Các anh chị quan tâm chịu khó đọc, tăng thêm kiên thức pháp luật không bao giờ thừa.

-------

ĐƠN ĐỀ NGHỊ
(V/v: Giám đốc thẩm Bản án phúc thẩm số 281/2009/HSPT
của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP. HCM)

Kính gửi: VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Đồng kính gửi : VĂN PHÒNG CHỦ TỊCH NƯỚC
ỦY BAN TƯ PHÁP QUỐC HỘI


Tôi là luật sư TRẦN HỒNG PHONG, thành viên Đoàn luật sư Tp. Hồ Chí Minh.
Địa chỉ: 843 Lê Hồng Phong, P.12, Q.10, TP.Hồ Chí Minh.

Là người được gia đình phạm nhân Hồ Duy Hải - người đã bị kết án tử hình về tội giết người và đang có lời kêu oan trong suốt quá trình xét xử vụ án tới nay, mời hỗ trợ pháp lý trong việc kêu oan cho phạm nhân.

Sau khi nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, trên tinh thần thận trọng, tôn trọng sự thật khách quan, với mong muốn góp phần bảo đảm sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, nay tôi có đơn này, kính đề nghị Quí cơ quan xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm số 281/2009/HSPT của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP. HCM. Vì các lý do sau:

- Việc xét xử phiến diện, thiếu khách quan, bất chấp kết quả giám định khoa học, bỏ qua tình tiết ngoại phạm của bị cáo.

- Kết luận trong bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.

- Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm sai lệch hồ sơ vụ án.

- Áp dụng pháp luật không đúng, xét xử sai tội danh.

Trên hết là có thể dẫn đến việc kết tội oan cho phạm nhân Hồ Duy Hải, đồng thời bỏ lọt kẻ phạm tội thực sự.

Cụ thể như sau:

Tóm tắt Bản án phúc thẩm:

Theo bản án phúc thẩm, khoảng 19 giờ ngày 13-1-2008, Hải đi xe mô tô của bà Rưỡi (dì ruột) đến bưu điện Cầu Voi, vào bên trong ngồi nói chuyện với chị Hồng. Khoảng 20h30 Hải đưa tiền và kêu Vân đi mua trái cây. Khi chị Vân đi, Hải nảy sinh ý định quan hệ sinh lý với Hồng, nhưng bị chị Hồng phản ứng. Hải tức giận đánh vào mặt, bóp cổ, lấy thớt đập vào mặt và đầu làm chị Hồng bị ngất. Sau đó Hải lấy dao cắt vào cổ chị Hồng.

Sau đó, từ chân cầu thang, Hải thấy Vân đi mua trái cây về, kéo cửa sắt xuống đóng cửa và đi vào. Khi Vân vừa xuống phòng sau Hải dùng ghế đánh vào đầu làm ngã xuống nền gạch. Sau đó Hải xốc nách Vân kéo đến chỗ xác chị Hồng, đặt đầu Vân nằm trên bụng chị Hồng và lấy dao inox cắt vào cổ chị Vân 2-3 cái.

Sau đó, Hải ra phòng vệ sinh rửa tay, rửa dao, bỏ dao vào sau tấm bảng, mở tủ lấy 1.400.000đ, sim card điện thoại, điện thoại Nokia 1.100, tiếp tục xuống nơi xác chị Hồng và chị Vân nằm lấy nữ trang của các nạn nhân.

Sau đó, Hải leo qua hàng rào ngăn giữa sân phía sau và sân trước, lấy xe rồi chạy về nhà dì ruột tên Len, kêu cửa mẹ ruột (chị Loan) mở cửa, cất nữ trang vào bịch nilon rồi đi ngủ.

Tại bản án nhận định như sau:

“ Mặc dù qua điều tra không thu giữ được thớt tròn, dao thái lan - song những cung khai của bị cáo đều trùng khớp với bản ảnh hiện trường có con gấu nhồi bông, bịch trái cây, tấm nệm … có thớt tròn bằng gỗ, có ghế inox, có việc bị cáo đốt quần áo …

Các nhân chứng Hùng, Thu, Ngọc, Vàng khi khám nghiệm thu con dao thái lan không dính máu phù hợp với cung khai của bị cáo rằng sau khi gây án đã rửa sạch dao.

Những cung khai và bản tự khai của bị cáo còn phù hợp với các biên bản nhận dạng về hung khí, về các tài sản đã chiếm đoạt của các nạn nhân, về các địa điểm mà bị cáo đã đến sau khi gây án.

Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thừa nhận chính là thủ phạm giết chết Hồng và Vân, ngay cả bản tự khai, các bản cung có Luật sư, có đại diện VKS tham gia bị cáo đều xác định và mô tả tỉ mỉ hành vi giết người của bị cáo.

Toàn bộ chứng cứ có đủ căn cứ xác định Hải là người đã giết chết chị Hồng và chị Vân”.

Qua bản án trên, chúng tôi xin trình bày như sau:

Phần I. 
Xét xử bỏ qua nhiều chứng cứ ngoại phạm 
của Hồ Duy Hải

I. Dấu vân tay thu giữ tại hiện trường không phải là của Hồ Duy Hải:

Theo Cáo trạng, hung thủ (Hải) khi giết hai nạn nhân đã thực hiện hàng loạt động tác bằng tay như : bóp cổ, kéo xác, dùng dao, thớt, ghế đập đầu, cắt cổ hai nạn nhân. Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường ghi nhận : “trên kính (cửa vào buồng ngủ) có dấu vết đường vân”, “ở mặt trong của kính trên cánh cửa (buồng vệ sinh) có 1 số dấu vết đường vân”, “trên labo rửa có 1 số dấu vết đường vân”. Những vết vân tay này đều đã được thu giữ.

Như vậy, dấu vân tay tại hiện trường chắc chắn phải là của hung thủ. Không thể khác được.

Thế nhưng, theo kết quả giám định (Bản kết luận giám định số 158/KL-PC21 ngày 11-4-2008) thì: “các dấu vết vân tay thu được tại hiện trường vụ án không phát hiện trùng với điểm chỉ 10 ngón in trên bản chỉ của Hồ Duy Hải”.

Khoa học đã khẳng định và tới nay chưa thể bác bỏ - mỗi người chỉ có dấu vân tay duy nhất, không trùng khớp với ai. Như vậy, đây là chứng cứ ngoại phạm quan trọng và rõ ràng nhất, đủ cơ sở khoa học chứng minh Hải không thể là thủ phạm đã giết hai nạn nhân.

Thế mà trong bản án sơ thẩm đã nhận định về vấn đề này như sau: “Vết máu thu được tại hiện trường tuy giám định không phải là của bị cáo. Song các thiếu sót trên không lớn. Đặc biệt là vết máu thu không đủ lượng, thời gian để kéo dài nên không xác định được vết vân tay cũng như mẫu tóc ngắn bị gãy không giám định được là đương nhiên”.

Thực tế, không phải là “máu không đủ lượng” hay “không giám định được”, cơ quan giám định không hề nói như vậy mà đã giám định được và kết luận dấu vân tay không phải của Hải. Hay nói cách khác, việc các cấp tòa bất chấp và bác bỏ chứng cứ khoa học về dấu vân tay bằng một lý lẽ phản khoa học và vô lý như vậy là không thể chấp nhận, vi phạm nghiêm trọng qui định của pháp luật tố tụng hình sự. Bỏ lọt chứng cứ ngoại phạm quan trọng nhất của Hồ Duy Hải.

Một câu hỏi không thể không đặt ra là: dấu vân tay tại hiện trường là của ai? Vì sao trong hồ sơ vụ án không có kết quả giám định vân tay của những đối tượng có quan hệ tình cảm và có khả năng có mặt tại bưu điện Cầu Voi tối 13-1-2008 như Nguyễn Văn Nghị, Nguyễn Mi Sol?

Chưa kể cơ quan điều tra cũng đã trưng cầu giám định nhiều dấu vết/tang vật khác như máu, tóc, tro. Toàn bộ các kết quả giám định đều không có chỉ dấu liên quan đến Hải.

II. Hồ Duy Hải không thể có mặt tại bưu điện Cầu Voi vào “khoảng 19h30”:

Theo Cáo trạng, Hải có mặt tại bưu điện Cầu Voi lúc “khoảng 19h30” tối 13-1-2008. Có “nhân chứng Đinh Vũ Thường thấy Hải ngồi trong Bưu điện lúc 19 giờ 39 phút 22 giây”.

Trong Cáo trạng không nhắc tới việc anh Hồ Văn Bình, cũng là người đã nhìn thấy một “người thanh niên” tại bưu điện tối 13-1-2008.

Trong hồ sơ vụ án thể hiện như sau:

- Lời khai của anh Hồ Văn Bình (BB ghi lời khai ngày 28-1-2008) : “Ngày 13-1-2008 tôi gửi xe ở Cầu Voi, lúc này trong bưu cục đã mở đèn sáng, thời gian lúc đó đã hơn 19h vì ở nhà đi đã ngoài 19h00. Tôi nhìn vào phòng khách, ngay bàn salon thấy có một thanh niên ngồi trên ghế nói chuyện với Hồng. Tôi đi qua nhà anh Mẫn, rồi quay lại mất độ 10 phút, lúc đó độ khoảng ngoài 19h30 tôi đến bưu cục lấy xe vẫn thấy Hồng và thanh niên trên còn ngồi nói chuyện”.

- Anh Đinh Vũ Thường (BB ghi lời khai ngày 31-3-2008) : “Tôi ghé vào Bưu điện Cầu Voi gọi điện thoại khoảng 20 giờ đổ lại. Tôi đi vào trong ngay cửa thì thấy 1 người nữ ngồi phía ngoài, một thanh niên ngồi giữa trên ghế salon ”.

Với tình tiết như trên, chúng tôi cho rằng:

1. Hải không đủ thời gian để có mặt tại bưu điện lúc “khoảng 19h30”, vì :

Anh Bình là người đã đến bưu điện trước, lúc này anh Thường chưa đến. Sau khi anh Bình qua nhà anh Mẫn “độ 10 phút” quay lại, anh Thường vẫn chưa đến. Vì hai anh Bình và Thường không gặp nhau, đều chỉ thấy có 1 chiếc xe (của người thanh niên) dựng trước cửa, phía bên phải.

Anh Thường đã có cuộc gọi từ máy của bưu điện lúc 19h39. Như vậy, anh Thường phải đến bưu điện sớm hơn ít nhất 1 phút (để dựng xe, đi vào bên trong và gọi điện thoại). Tức lúc 19h38. Trước đó anh Bình đã đến gửi xe, rồi sau đó quay lại lấy xe của mình ra về. Như vậy, anh Bình phải rời khỏi bưu điện trễ nhất lúc 19h37 phút ( với giả sử ngay sau khi anh Bình ra khỏi cổng là anh Thường vào). Trước đó khoảng 10 phút, anh Bình đã thấy “người thanh niên” ngồi trong bưu điện – lúc này là 19h27 phút.

Với tình tiết như vậy, Hải phải có mặt tại bưu cục trễ nhất vào lúc 19h26 phút (có 1 phút để dựng xe, cởi áo khoác, vào bên trong ngồi xuống ghế nói chuyện với Hồng) và anh Bình nhìn thấy.

Trong khi đó, lúc 19h13 phút Hải còn đang nghe điện thoại của anh Đang ở tiệm cầm đồ cách bưu điện 7,5km. Như vậy, thời gian “còn lại” để Hải đi từ tiệm cầm đồ đến bưu điện là 13 phút. (Từ 19h13 đến 19h26)

Theo Cáo trạng, Hải chạy xe với vận tốc khoảng 40km/h, có khoảng 15 phút để đi từ tiệm cầm đồ đến bưu điện trên quãng đường 7,5km. Và cơ quan điều tra đã “kiểm tra thực tế” vào ngày 14-7-2008.

Kết luận trên thoạt nghe có vẻ hợp lý. Nhưng nếu đối chiếu kỹ với chính kết quả điều tra có trong hồ sơ, có thể khẳng định Hải không thể nào thực hiện được hành trình như vậy trong khoảng thời gian 13 phút. Vì trong 13 phút đó, Hải đang trong trạng thái tâm lý bình thường, không có gì gấp gáp và còn phải trải qua/thực hiện ít nhất 3 việc sau:

1. Làm thủ tục cầm đồ, nhận tiền: Lời khai của bà Nguyễn Thị Tuyết Trinh (chủ tiệm cầm đồ) (BL 275, 276) : “Theo quy trình cầm điện thoại di động, tôi lấy điện thoại di động của người cầm gọi vào máy điện thoại bàn nhà tôi kiểm tra xem có hoạt động không (chỉ nhá máy). Sau đó tôi lấy điện thoại bàn của tôi gọi lại vào máy di động của khách”. Như vậy, sau khi Hải nhận điện thoại của Đang, còn phải đợi bà Trinh gọi điện kiểm tra máy 2 lần. Rồi gói điện thoại vào bao, viết phiếu cầm đồ, đếm/giao tiền. Quy trình này phải mất ít nhất 5 phút.

2. Về nhà đổi xe khác: đoạn đường từ đường lộ vào nhà Hải dài khoảng 350m, đường bờ ruộng nhấp nhô và không có đèn. Từ ngoài đường vào trong sân nhà khoảng 30m nữa. Hải sẽ phải vào nhà dựng chiếc xe đang chạy, rồi lấy chiếc xe khác và quay ra. Giả sử Hải không làm bất kỳ việc nào khác mà đi ngay, thì thời gian này ít nhất cũng là 2 phút.

3. Đến quán cà phê Thanh đón anh Đang, đưa tiền. Sau đó tiếp tục chở Đang qua quán cà phê Hai Thượng, thả Đang xuống: dừng và khởi động xe 2 lần, đưa tiền cho Đang, Đang vào quán trả tiền, đi ra rồi chở đi: ít nhất 2 phút.

Tổng thời gian cho 3 việc trên ít nhất là 9 phút. Như vậy Hải sẽ chỉ có khoảng 4 phút còn lại – thời gian này quá nhỏ và chắc chắn không đủ để Hải chạy một quãng đường trên 7,5km, trong hoàn cảnh trời tối, nhiều đoạn không có đèn đường, đường xấu, rất nhiều ngã rẽ, qua cầu … (chưa kể đây là chiếc xe TQ, đã hỏng bộ phận đề máy) để đến bưu điện lúc “khoảng 19h30” được.

2. “Người thanh niên” có phải là Hồ Duy Hải ?

Cáo trạng cho rằng “người thanh niên” mà hai nhân chứng Bình và Thường thấy tại bưu điện Cầu Voi là Hồ Duy Hải. Điều này chỉ là suy luận chủ quan và không đúng sự thật.

Nhân chứng Đinh Vũ Thường không hề “thấy bị can Hải” tại bưu điện Cầu Voi:

Việc trong Cáo trạng kết luận nhân chứng Thường đã “thấy bị can Hải tại bưu điện Cầu Voi” cũng hoàn toàn là suy đoán chủ quan, không đúng sự thật.

Trong các bản khai, cả hai anh (Thường và Bình) chưa bao giờ nói đã nhìn thấy Hải mà chỉ thấy thấp thoáng “một thanh niên” bên trong bưu điện - tầm nhìn bị ngăn cách qua một lớp kính, khoảng cách xa (6-12m), điều kiện ánh sáng ban đêm.

Cơ quan điều tra cũng chưa từng cho anh Thường nhận dạng Hải và/hoặc anh Thường không thể nhận dạng được Hải.

Ngày 7-12-2011 vừa qua, chúng tôi đã trực tiếp gặp anh Thường. Anh Thường khẳng định mình không thể nhận diện “người thanh niên” được. Việc Cáo Trạng ghi anh đã “nhìn thấy Hải” là sai sự thật.

3. Chưa đủ cơ sở để kết luận về chiếc xe Hải đi tối ngày 13-1-2008:

Theo Cáo Trạng, tối 13-1-2008, Hải đã sử dụng 2 chiếc xe gắn máy, ban đầu là xe Wave 62F4-3040 của bà Nguyễn Thị Len (dì ruột). Sau khi cầm đồ, Hải về nhà đổi chiếc xe kiểu Dream cao TQ, màu nho của bà Nguyễn Thị Rưỡi (dì ruột) dựng sẵn trước sân nhà, chạy đến bưu điện và gây án.

Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án thể hiện nhiều điểm phi lý, mâu thuẫn và không phù hợp với thực tế. Cụ thể như sau:

i. Hải đã đi một chiếc xe có 3 biển số khác nhau?

Cáo trạng và Bản án xác định Hải sử dụng xe biển số 62F6 – 0842 của bà Rưỡi khi đến bưu điện. Nhưng khi ra về thì chiếc xe có biển số khác : 62F5-0842(?). Còn trong “BB nhận dạng” của anh Đinh Vũ Thường ngày 31-3-2008, thì ghi nhận anh Thường đã nhận dạng được chiếc xe có biển số khác nữa là 62H5-0842.
Như vậy thực sự Hải đã đi chiếc xe nào? Anh Thường nhận dạng chiếc xe nào ? Cơ sở nào để nói 3 biển số khác nhau này là một chiếc xe ?

ii. Anh Đinh Vũ Thường không hề và cũng không thể nhận dạng được chiếc xe của bà Rưỡi:

Việc trong Biên bản nhận dạng ghi anh Thường đã nhận dạng ra “chiếc xe 62H5-0842 đã cũ là chiếc xe giống chiếc xe anh Thường đã thấy tại bưu cục Cầu Voi” – và cơ quan điều tra cho rằng đó chính là chiếc xe 62F5-0842 của bà Rưỡi, Hải đã sử dụng tối 13-1-2008 là vô lý. Vì:

- Quá trình nhận dạng không khách quan: điều kiện khi nhận dạng là ban ngày (9h sáng), trong khi thực tế anh Thường nhìn thấy chiếc xe tại bưu điện là khoảng 19h39 (trời tối, ánh sáng đèn yếu). Việc nhận dạng không có người chứng kiến theo qui định.

- Trong “Biên bản ghi lời khai” lúc 7h30 ngày 31-3-2008, anh Thường khai thấy “chiếc xe Dream màu nho đã cũ” nhưng “tôi không nhìn thấy 1 con số nào hết”. Kèm bản khai này là một sơ đồ khu vực do chính anh Thường vẽ, ghi rõ “không nhình thấy biển số”. Thậm chí anh Thường còn khai “không để ý xe có bửng và kính chiếu hậu phải hay không”, “không để ý trên xe có để đồ vật gì không”. Như vậy, không thể có việc chỉ khoảng hơn một giờ đồng hồ sau, anh Thường lại có thể nhận diện chính xác chiếc xe có biển số 62H5-0842 được.

Ngày 7-12-2011 vừa qua, chúng tôi đã trực tiếp gặp anh Thường và đưa cho anh Thường xem “Biên bản nhận dạng ngày 31-3-2008. Anh Thường khẳng định mình không hề khai và cũng không hề nhận dạng ra biển số xe 62H5-0840 - như trong Biên bản đã ghi thêm vào (sẽ nói ở phần sau).

iii. Cơ quan điều tra cố tình làm sai lệch hồ sơ trong việc nhận dạng chiếc xe:

Trong hồ sơ còn cho thấy dấu hiệu điều tra viên đã sửa chữa, ghi thêm vào những tình tiết về số xe và việc nhận dạng. Cụ thể:

- Trong Biên bản ghi lời khai của anh Thường ngày 31-3-2008 ghi thêm câu “tôi nghĩ sẽ nhận dạng được”. Sau câu “tôi không nhìn thấy một con số nào hết”.

- Trong Biên bản nhận dạng ngày 31-3-2008, tại trang 2, ghi thêm câu “biển số H5-0842”.

Qua dấu hiệu sửa chữa như trên, đã thể hiện một sự cố ý từ phía cơ quan điều tra, nhằm chứng minh rằng anh Thường đã nhận dạng ra chiếc xe mà Hải đi gây án tối 13-1-2008. Tuy nhiên, chính sự sửa chữa này đã thể hiện rõ ràng dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án.

iv. Khả năng Hải sử dụng chiếc xe của bà Rưỡi vào tối 13-1-2008 là thấp:

Theo Cáo trạng, sau khi gây án, “Hải lấy xe 62F5-0842 chạy về, đưa xe vào nhà dì ruột Nguyễn Thị Len cất”, sau đó “kêu cửa mẹ ruột Nguyễn Thị Loan để vào nhà mình tắm, giặt quần áo”. Như vậy, chiếc xe 62F5-0842 suốt đêm 13-1-2008 không có ở nhà bà Rưỡi và bà Rưỡi không sử dụng. Điều này là vô lý vì:
Lời khai của tất cả các thành viên trong đại gia đình Hải cho thấy thường ngày Hải hay đi chiếc xe Ware màu đỏ của dì ruột là bà Len. Vì nhà bà Len sát vách nhà Hải. Ngay sau khi bị bắt, tại “Bảng tường trình” ngày 21-3-2008 Hải khai “tôi đi bằng xe 62K8-3040”, tại “Biên bản ghi lời khai” ngày 21-3-2008 Hải cũng khai “Tôi chạy xe honda Wave S màu đen, biển số 62K8-3040 đến bưu điện Cầu Voi” - chính là chiếc xe của bà Loan. Sau đó Hải thay đổi lời khai, tại “Biên bản lấy lời khai” ngày 22-3-2008 khai Hải sau khi ở tiệm cầm đồ quay về nhà và thấy xe của bà Rưỡi để trước nhà, Hải lấy xe này đến bưu cục, “sau khi gây án đem về cất ở nhà luôn, sáng hôm sau dượng Ba (chồng bà Rưỡi) lại lấy”

Trên thực tế, nhà bà Rưỡi không ở ngay cạnh nhà Hải và nhà bà Len như trong Cáo Trạng ghi nhận. Hàng ngày, ông Nguyễn Văn Thu (chồng bà Rưỡi) sử dụng chiếc xe này. Chiếc xe cũng có thể được bà Rưỡi sử dụng đi đến thăm mẹ (nhà sát vách nhà Hải). Nhưng nếu bà Rưỡi có dựng ở sân nhà Hải thì cũng chỉ vào ban ngày hoặc vào chập tối. Còn buổi tối bà Rưởi/hoặc chồng bà Rưỡi đều lấy xe 62F5-0842 để về nhà mình. Vì bà Rưỡi không ngủ đêm tại nhà mẹ.

Như vậy, bất luận là khoảng 19h ngày 13-1-2008, bà Rưỡi có để xe của mình ở sân nhà Hải hay không thì tối đó, bà Rưỡi cũng phải lấy xe của mình để về nhà. Trong khi đó, theo Cáo Trạng ghi nhận rằng tối đó khoảng 23h đêm, Hải về nhà không thấy ai (tức là bà Rưỡi đã về nhà mình) và dắt xe của bà Rưỡi vào nhà bà Len là điều vô lý. Liên quan đến việc này, mới đây bà Rưỡi đã có Bản trình bày (ghi ngày 10-1-2012) khẳng định sáng 14-1-2008, bà đã sử dụng chiếc xe 62F5-0842 của mình để đi chợ.

Qua những tình tiết trên, chúng tôi cho rằng khả năng Hải đã đi chiếc xe 62F5-0842 của bà Rưỡi vào tối 13-1-2008 là thấp. Chưa kể tình tiết Hải đi cầm đồ xong “tự nhiên” quay về nhà đổi xe - từ chiếc Wave lùn thành chiếc Deam cao - cũng là bất thường, không có căn cứ xác đáng.

4. Mâu thuẫn trong kết luận về chiếc áo Hải mặc tối 13-1-2008 :

Theo Cáo trạng, tối 13-1-2008 “lúc đi Hải mặc áo thun màu xanh, trên ngực có hàng chữ màu trắng”. Hải cũng có nhiều lời khai xác định chiếc áo có chữ màu trắng. Cụ thể: Bản khai ngày 25-3-2008 “ áo xanh màu lá đậm, có sọc trắng trước áo và chữ tiếng Anh”. Biên bản hỏi cung bị can ngày 4-9-2008 (BL 504): “ khi đi tôi mặc áo thun xanh, ngực có chữ màu trắng”.

Tuy nhiên, anh Đinh Vũ Thường – tại “Biên bản ghi lời khai” ngày 31-3-2008 khai thấy người thanh niên “mặc áo thun ngắn tay màu xám đen, hoặc xanh đen có sọc trắng xen kẽ”.

Như vậy, có sự khác biệt về màu sắc và kiểu “sọc trắng xen kẽ” tức là nhiều sọc chứ không phải 1 sọc và cũng không có hàng chữ màu trắng. Khác biệt này đã không được làm rõ vì anh Thường không được triệu tập tham dự phiên tòa với tư cách là nhân chứng.

Phần II. Khả năng Hải có mặt tại bưu điện Cầu Voi tối 13-1-2011 là rất thấp

I. Hồng đã có cuộc hẹn với Misol tối 13-1-2011 và nhân chứng Hiếu khẳng định MiSol có về bưu điện Cầu Voi tối 13-1-2008:

Qua Cáo trạng mô tả như : Hải nói chuyện với Hồng khá lâu, hai người đùa giỡn rồi Hải kéo Hồng vào phòng ngủ đòi quan hệ tình dục … - cho thấy giữa hai người phải có mối quan hệ rất thân tình, tương đối lâu dài và công khai. Thế nhưng, thực tế không có bất kỳ chi tiết nào cho thấy giữa Hải và hai nạn nhân có mối quan hệ vượt trên bình thường. Tại thời điểm xảy ra vụ án, những người bạn thân nhất của hai nạn nhân đều khẳng định Hồng đang có quan hệ tình cảm với 2 người là Nguyễn Văn Nghị và Nguyễn Misol, không hề biết hay thấy Hải bao giờ.

Quan hệ tình cảm giữa Hồng - Sol là sâu đậm. Hồng đeo trên tay nhẫn cưới do Sol tặng, hai người đang sống “như vợ chồng”. Hàng tuần Sol thường xuyên từ TP.HCM về thăm Hồng và mỗi lần như vậy đều ngủ lại ngay tại bưu điện. Tại “BB ghi lời khai” ngày 21-6-2008 (BL 209,210) ông Sol khai : “Sau khi lên TP.HCM thì tôi cũng thường xuyên về bưu điện sống chung như vợ chồng với Hồng. Trung bình cứ 1 tuần lễ thì về 1 ngày. Thời gian gần nhất trước khi Hồng Vân bị giết, về bưu điện vào ngày thứ tư 9-1 đến sáng thứ năm 10-1 tôi mới đi TP.HCM làm tiếp”.

Đặc biệt trong hồ sơ thể hiện thông tin cho thấy ngay tối 13-1-2008 Misol có cuộc hẹn với Hồng tại bưu điện Cầu Voi. Cụ thể:

Tại “BB ghi lời khai” ngày 19-1-2008 (BL 197) chị Hiếu khai: “Tôi nghe chị Vân : hai đứa gái không đường xe cộ không mà đi làm gì. Chiều anh Sol về chứ gì phải đi”.

Ngày 25-11-2011, chúng tôi có trực tiếp gặp chị Hiếu - bạn thân của hai nạn nhân và là người thường xuyên đến chơi, ngủ lại tại bưu điện Cầu Voi. Chị Hiếu khẳng định trước giờ chưa bao giờ nghe Hồng, Vân nhắc đến Hải, và cũng chưa bao giờ gặp Hải tại bưu cục Cầu Voi. Trong khi nhiều lần gặp Sol, Nghị. Chị Hiếu cũng cho biết trong buổi chiều ngày 13-1-2008, chính chị có thấy Hồng nói chuyện điện thoại di động với Sol 2 lần và khẳng định chắc chắn tối hôm đó Sol sẽ về Cầu Voi. Vì tới lúc 17 giờ chiều, không hề nghe nói Sol không về.

Trong bối cảnh như vậy, liệu có thể có khả năng Hải đã đến chơi tại bưu điện đến 21h, sau đó giết hại nạn nhân?

Hơn nữa, qua những thông tin trên, chúng tôi cảm thấy hết sức bất thường khi trong hồ sơ vụ án không hề có bất kỳ bản hỏi cung nào đối với ông Sol về việc chiều tối ngày 13-1-2011 Sol đã ở đâu?

II. Nạn nhân Vân không thể đóng hai lớp cửa bưu điện, tạo ra khung cảnh hoàn toàn cách ly với bên ngoài nếu bên ngoài sân đang có chiếc xe honda và bên trong đang có khách:

Theo Cáo trạng, sau khi đi mua trái cây về lúc khoảng 21h, Vân đã đóng hai lớp cửa (cửa sắt cuốn rồi tới lớp cửa kính) rồi đi vào trong nhà. Trong khi Cổng bưu điện bên ngoài không khóa ( hoặc nếu khóa thì lại càng vô lý – vì Hải sẽ không thể dắt chiếc xe gắn máy ra ngoài sau khi gây án).

Tình tiết Vân đóng cửa cho thấy có khả năng lúc này không còn chiếc xe Honda nào ở bên ngoài sân. Và giả sử chiếc xe là của “người thanh niên” ngồi chơi trước đó, thì nhiều khả năng người này đã ra về.

Vì lúc đó nếu trong bưu điện thực sự đang có khách (là Hải), lại đang dựng chiếc xe Honda ở ngoài sân, giáp ngay mặt đường quốc lộ - thì việc đóng kín cửa như vậy sẽ làm cho bên trong nhà hoàn toàn bị cách ly, không thể nhìn thấy bên ngoài, không theo dõi quản lý được chiếc xe Honda (không an toàn, bị kẻ gian lấy cắp xe).

Chưa kể nếu đang có khách, mà khách đang ngồi chơi, sẽ không ngủ đêm lại, thì rõ ràng việc Vân đóng cả 2 lớp cửa tạo nên bối cảnh bịt bùng, nội bất xuất ngoại bất nhập như vậy là hoàn toàn không hợp lý. Chưa kể là nếu Vân đi mua trái cây về, nếu thấy khung cảnh vắng vẻ (lúc này Hải đã giết Hồng phía sau) thì lại càng ít có khả năng đóng hai lớp cửa như vậy.

Tuy nhiên, tình tiết này cho thấy sau khi Vân đóng cửa, nếu bên trong bưu điện vẫn còn ai đó thì người này chắc chắn phải là người rất thân thiết với hai nạn nhân và hầu như chắc chắn người này sẽ ngủ qua đêm tại bưu điện. Người này không thể là Hải.

Phần III. Nghi vấn về thời gian chết của hai nạn nhân

Theo kết quả giám định pháp y, xác định hai nạn nhân chết do vết cắt trên cổ gây choáng chấn thương và mất máu cấp. Trong dạ dày Hồng “có thức ăn đã nhuyễn, lượng ít”.

Tại BB ghi lời khai của chị Hiếu (Bl 197, 198) “ tôi và chị Hồng đi nấu cơm ăn, khoảng 12g cùng dọn lên ăn, xong rửa chén tôi và chị Hồng vào buồng ngủ còn chị Vân thì thức. Ngủ tới gần 17g dậy rửa mặt xong về nhà”.

Tại BB khám nghiệm hiện trường ghi nhận “phía trong sát với đùi phải Hồng có một bàn bếp, trên bàn có ly, tô, dĩa đã sử dụng nhưng chưa rửa”. ( Đáng tiếc là không thể hiện rõ có bao nhiêu chiếc ly, bao nhiêu tô, dĩa – để có thể xác định số người ăn).

Các tình tiết trên cho thấy hai nạn nhân (hoặc ít nhất là Hồng) đã ăn tối trước khi chết. Vì lúc 17h chiều, khi chị Hiếu ra về thì chén bát đã rửa.

Việc Cáo trạng kết luận hai nạn nhân bị giết vào khoảng từ 20h30 đến 21h tối 13-1-2008, mà không xem xét về mặt khoa học là không hợp lý. Về thời điểm chết của hai nạn nhân có 2 nghi vấn.

I. Máu không thể chưa đông/ khô sau hơn 13 giờ kể từ thời điểm chết:

Việc khám nghiệm hiện trường được tiến hành từ 8h30- 13h30 ngày 14-1-2008, sau thời điểm kết luận chết khoảng 13 giờ. Qua các tấm ảnh, thể hiện xác hai nạn nhân được đặt trên tấm vải màu trắng. Trên thân thể Hồng máu có màu đỏ tươi, vẫn còn chảy ra và thấm vào tấm vải lót. Trong BB khám nghiệm hiện trường ghi nhận “trên sàn nhà nơi hai nạn nhân nằm có vũng máu đọng chưa khô hoàn toàn”.

Theo khoa học pháp y ( Giáo trình Pháp y học – ĐH Y Dược TP. HCM), khi chết, “máu không còn lưu thông trong hệ tuần hoàn, ứ lại trong các lòng mạch tại các vùng thấp so với tư thế của tử thi và hình thành các mảng màu hoen đỏ tím nhạt gọi là vết hoen tử thi. Sau khi chết khoảng 20 phút, vết hoen bắt đầu xuất hiện. Sau khi chết khoảng 6 giờ vết hoen phát triển hoàn toàn chiếm toàn bộ vùng thấp”.

Như vậy, nếu thực sự hai nạn nhân đã chết vào khoảng 20h30h– 21g, thì sau khoảng hơn 12 tiếng đồng hồ chắc chắn không thể còn hiện tượng máu vẫn tiếp tục chảy ra từ cơ thể. Màu máu cũng không thể đỏ tươi mà lúc này máu đã thẫm màu và khô đông từ lâu. Chưa kể trong khi kết luận nạn nhân Hồng chết trước thì máu vẫn chảy, trong khi Vân chết sau thì máu lại khô hơn có thấy có sự bất hợp lý.

II. Thức ăn trong dạ dày nạn nhân Hồng “đã nhuyễn” cho thấy nạn nhân đã ăn tối trước khi chết ít nhất 4 giờ đồng hồ, đó là thời điểm nào?

Cũng theo pháp y, hoàn toàn có thể dựa vào độ nhuyễn của thức ăn trong dạ dày để xác định thời gian từ bữa ăn cuối cùng đến khi chết. Các loại thức ăn thông thường (cơm, trứng, cá …) sẽ tiêu hóa hết trong dạ dày trong khoảng 3-4 giờ. Các loại thịt (bò/heo) tiêu hóa hết trong khoảng 4-5 giờ. Như vậy, nhìn chung thức ăn sẽ tiêu hết trong dạ dày trong vòng 3-5 giờ kể từ khi ăn.

Theo Cáo trạng, Hải có mặt tại Bưu điện vào khoảng 19g30 và không hề thấy việc hai nạn nhân ăn cơm chiều. Như vậy, Hồng (có thể là cả Vân) đã ăn bữa tối trước 19g30.

Do thức ăn trong dạ dày Hồng “đã nhuyễn” vào thời điểm dự đoán chết (20h30), nên nếu vậy - thì Hồng đã ăn trước đó khoảng 4 giờ - tức lân cận 16h30. Tuy nhiên điều này là không hợp lý, vì khi chị Hiếu ra về lúc 17g, tại bưu điện vẫn chưa hề chuẩn bị gì bữa tối và đang trong bối cảnh chờ anh Misol về.

Còn nếu xác định Hồng đã ăn trong khoảng thời gian sau từ sau 18h đến 19h30 (là lúc Hải đến) thì thức ăn trong dạ dày không thể “đã nhuyễn” vào thời điểm “bị giết” xác định là 8h30.

Như vậy, về mặt khoa học, không đủ cơ sở để kết luận hai nạn nhân bị giết trong khoảng gian từ 20h30 – 21g như trong Cáo trạng. Mà cái chết đã xảy ra sau đó ít nhất vài giờ đồng hồ. Cũng chưa thể xác định ai chết trước, chết sau.

Phần IV. Tình tiết mới: Tầng 1 với nhiều nghi vấn liên quan đến người khác

Bưu điện Cầu voi là một ngôi nhà gồm 2 tầng ( trệt và lầu 1). Tại thời điểm xảy ra vụ án, tầng 1 vẫn sử dụng bình thường. Tại BB khám nghiệm hiện trường ngày 14-1-2011 chỉ ghi đơn giản như sau : “ Trên lầu là khu vực để máy móc thiết bị, cửa còn khóa, không có dấu vết cạy cửa”. Câu hỏi đặt ra là : nếu cửa lầu 1 còn khóa, thì tại sao những người khám nghiệm biết đó là khu vực để máy móc thiết bị ? Và dù cửa khóa, liệu có đủ cơ sở để khẳng định trên lầu 1 không có dấu vết gì liên quan đến vụ án?

I. Nghi vấn liên quan đến ông Nguyễn Mi Sol:

Ngày 25-11-2011 vừa qua, chúng tôi đã trực tiếp gặp ông Nguyễn Văn Thu (một trong những người phụ trách dọn dẹp hiện trường vụ án và chị Lê Thị Thu Hiếu (nhân viên Bưu điện xã Nhị Thành, bạn thân của hai nạn nhân và là người có mặt tại bưu điện trong cả ngày 13-1-2008). Đây cũng là hai nhân chứng trong vụ án.

Theo lời chị Hiếu :

- Anh Sol thường ghé thăm Hồng vào buổi tối và mỗi lần đều ngủ lại. ( Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với lời khai của Sol). Khi Sol ở lại thì Sol và Hồng ngủ trên lầu 1. Có lần chị Hiếu đã ngủ lại tại bưu cục lúc có Sol, nên biết rõ như vậy. ( Hiếu và Vân ngủ ở phòng bên dưới, Hồng và Sol ở trên lầu).

- Chị Hiếu khẳng định tối 13-1-2008 anh Sol có về bưu cục Cầu Voi.

Theo lời anh Thu thì:

- Tối 13-1-2008, lúc gần 19h anh Thu đã chở Hải ( chở xe ôm) về nhà. Hải xuống bến xe bus trên chuyến xe từ TP.HCM về Long An, tại ngã ba Bình Ảnh. Lúc này Hải mặc áo sơ mi, đội nón kết và trên tay cầm tờ báo. Ông Thu đã chở Hải tới tận cổng nhà.

- Sau đó, lúc khoảng 21h30-22h đêm, anh Thu chở (xe ôm) 2 người khách, đi ngang qua bưu cục Cầu Voi và thấy “trên lầu 1 Bưu cục còn sáng đèn. Cổng, cửa phía trước bưu điện đều đã đóng”.

Cả anh Thu và chị Hiếu đều cam kết về lời kể này và sẵn sàng làm việc với cơ quan điều tra. Đây là những thông tin hoàn toàn mới. Nếu đúng, thì rõ ràng trong đêm 13-1-2008 đã có người ở trên lầu 1 bưu cục.

Người đó là ai ? Đây là vấn đề cần làm rõ. Ngoài ra, nếu có người trên lầu 1 trong đêm, mà qua sáng hôm sau cửa lên lầu 1 đã bị khóa thì ai đã khóa ? Vì sao khóa ?

II. Nghi vấn về một người khác ?

1. Dấu dép trên mặt ghế của ai?

Theo “Kết luận điều tra” (BL 386), đêm 13-1-2008 khi vào bưu cục Hải “bỏ dép ở bậc tam cấp và đi vào”. Như vậy, Hải thực hiện hành vi giết Hồng và Vân trong tình trạng không mang dép. Điều này nói lên Hải không thể tạo ra dấu dép tại hiện trường.

Trong khi đó, theo “BB khám nghiệm hiện trường” lại ghi nhận một chân của nạn nhân Vân gác lên mặt chiếc ghế xếp inox và “trên mặt nệm ghế có dấu vết máu quệt và dấu vết đế dép dính những hạt cơm khô”.

Vậy ai là người đã để lại dấu dép này ? Từ đôi dép nào ? – đây là vấn đề chưa rõ.

2. Ai đã tạo ra các “vét bầm” ở chân nạn nhân Hồng?

Tại “BB khám nghiệm tử thi” và BB giám định pháp y đều ghi nhận trên cơ thể nạn nhân Hồng “có một số vết bầm máu làm da sậm màu ở mặt trước đùi chân phải, mặt trước cẳng chân trái”. Các vết bầm này là do tác động của ngoại lực chứ không thể tự nhiên mà có.

Vậy ai đã gây ra những dấu vết này? bằng vật dụng gì ? - Trong khi Hải không hề có bất kỳ lời khai nào nói đến việc đã đánh hay tác động vào phần chân của nạn nhân Hồng.

3. Ai đã mang mút xốp đến bưu điện Cầu Voi ?

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường còn ghi nhận “trên mặt bàn có một miếng mút xốp màu trắng và vài mảnh mút xốp đã được cắt vụn trên mặt bàn và rải rác vài mảnh dưới nền nhà”.

Tại BB ghi lời khai ngày 19-1-2008 của chị Hiếu thì: “Tôi xác định trên bàn không có loại bộc xốp trắng nào, tôi cũng không thấy loại xốp này bao giờ. Tôi cũng không biết loại xốp này là xốp gì cả”. Như vậy, đến lúc 17g (là thời điểm chị Hiếu ra về) tại bưu cục vẫn chưa có mút xốp.

BB hỏi cung bị can ngày 11-6-2008 Hải khai “tại ghế salon trên bàn lúc tôi và Hồng ngồi có báo tạp chí, 1 ly nước, điện thoại Nokia đen và mút sốp”. Tức là Hải cũng không phải là người đem mút xốp đến bưu cục.
Vậy ai đã đem mút xốp đến Bưu điện, mút xốp chứa đựng vật gì ? Ai đã cắt vụn mút xốp ra? Đây cũng là điều chưa rõ.

4. Ai đã vén áo nạn nhân Hồng?

Theo ảnh chụp tại hiện trường, nạn nhân Hồng nằm ngửa, áo ngoài bị xắn ngược lên tới tận cổ, để hở toàn bộ phần bụng và lưng. Áo lót ngực bị kéo lên trên, để hở cả hai núm vú.

Theo Cáo Trạng, Hải đã “bóp cổ”, đánh vào mặt và sau đó cắt cổ Hồng. Tuy nhiên chắc chắn những động tác này không thể gây ra tình trạng cả hai lớp áo của nạn nhân bị kéo sốc lên quá cao như vậy. ( Trong khi nạn nhân Vân bị Hải xốc nách kéo từ phòng trước ra sau thì cả hai lớp áo không hề sộc sệch).

Như vậy, chắc chắn phải có ai đó đã làm việc này. Người đó là ai?

5. Chiếc vòng trên tay nạn nhân Hồng là vòng gì ? của ai?

Theo ảnh chụp tại hiện trường, nạn nhân Hồng khi chết nằm ngửa, trên cổ tay trái có đeo một chiếc vòng lớn.

Trong các bản khai của Hải và các nhân chứng không thể hiện về chiếc vòng này. Chị Lê Thị Thu Hiếu tại “BB ghi lời khai” ngày 19-1-2008 khai “ hôm chủ nhật lúc 17h tôi thấy chị Hồng có 1 đôi bông tai, 1 sợi dây chuyền, 3 chiếc nhẫn vàng và 1 chiếc vòng cẩn hột nhỏ nhỏ”.

Câu hỏi đặt ra là: Đây là chiếc vòng bằng vật liệu gì ? Từ đâu Hồng có chiếc vòng này và vì sao không thấy ai nhắc đến chiếc vòng này ?

6. Tư thế chết của nạn nhân Hồng cho thấy có dấu hiệu nạn nhân bị xâm hại tình dục:

Qua bản ảnh, tư thế khi chết (tư thế cuối cùng) của nạn nhân Hồng ở trạng thái như sau:

- Nằm ngửa, hai chân dạng rộng. Đầu quay hướng ra cửa.

- Hai tay dang ngang cao quá vai, bàn tay ngửa - tư thế bị đè đến chết. Không có phản ứng kháng cự. Trên cổ tay trái còn đeo một chiếc vòng – đây là vòng gì, ở đâu – điều này chưa được làm rõ.

- Áo lót bị kéo ngược lên trên hai bầu vú, làm lộ hai núm vú. Áo ngực không dính máu, không dấu tay – cho thấy nạn nhân bị kéo áo trước khi bị cắt cổ. Vì nếu kéo áo sau khi cắt cổ thì máu sẽ chảy ra rất nhiều, loang xuống.

- Áo ngoài bị cuộn hẳn lên trên áo lót, gần sát cổ, để lộ trần toàn bộ khuôn ngực và lưng.

- Trên mặt có các vết cắt do vật sắc bén tạo nên, nhiều chiều (ngang, dọc, chéo …) – giống như vết cắt cố ý và mang tính chất “tra tấn”. Môi, miệng bị xưng và bầm tím.
Đọc thêm »

ĐƠN CỦA LUẬT SƯ TRONG VỤ HỒ DUY HẢI Rating: 4.5 Diposkan Oleh: Unknown

2 nhận xét:

  1. Xét xử các vụ án cần phải đúng người, đúng tội, xem xét thật kỹ các tình tiết mới đi đến kết luận, không để oan sai

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Bạn nói rất đúng, nhưng vụ này Hải hoàn toàn sai phạm và đã phải chấp nhận tội lỗi; cơ quan đều tra sai thì cơ quan chịu trách nhiệm

      Xóa

comment xây dựng Tre Làng Blog nhớ viết có dấu, có lịch sự